Đồng lòng hiện thực hóa khát vọng xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh, hạnh phúc
Dân chủ, thẳng thắn và đầy trách nhiệm, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XX thực sự trở thành diễn đàn của trí tuệ và khát vọng phát triển. Các đại biểu đã tập trung thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân, đi sâu vào trọng tâm những vấn đề cốt lõi trong hành trình phát triển đi lên của tỉnh. Từ đó khẳng định ý chí, cổ vũ niềm tin, lan tỏa khát vọng, quyết tâm xây dựng Thanh Hóa phát triển giàu đẹp, văn minh, hạnh phúc.
Phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn theo chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu bền vững Đồng chí Cao Văn Cường, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường. Nhiệm kỳ 2020-2025, ngành nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và toàn diện, khẳng định ngành nông nghiệp luôn là “trụ đỡ” vững chắc của nền kinh tế tỉnh, nhất là trong giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19. Hiện nay, Thanh Hóa đã vươn lên trở thành địa phương có nền nông nghiệp phát triển với nhiều vùng sản xuất nguyên liệu tập trung quy mô lớn, như: vùng lúa thâm canh 150 nghìn ha, ngô thâm canh 20 nghìn ha, mía thâm canh 12 nghìn ha, cây ăn quả tập trung 14 nghìn ha, rau an toàn 14,3 nghìn ha gieo trồng; đàn bò sữa 17,5 nghìn con, bò thịt chất lượng cao trên 70 nghìn con, lợn hướng nạc 920 nghìn con, gà lông màu 12,5 triệu con; ổn định 56 nghìn ha rừng gỗ lớn, phát triển 45 nghìn ha luồng thâm canh và nhiều vùng nuôi trồng thủy sản tập trung. Hiện toàn tỉnh có trên 220 ha diện tích nhà màng, nhà lưới, 2.500 ha sản xuất đạt chứng nhận VietGAP; gần 20 ha cây trồng đạt tiêu chuẩn hữu cơ và khoảng 5.100 ha diện tích cây trồng sản xuất theo hướng hữu cơ; bước đầu hình thành nhiều mô hình chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp theo hướng hữu cơ, an toàn sinh học, tuần hoàn và có nhiều sản phẩm được chứng nhận an toàn thực phẩm theo Thông tư số 38. Cùng với đó, Thanh Hóa đã thiết lập mã số vùng trồng cho gần 2 nghìn ha, xây dựng bản đồ nông hóa, phát triển cổng thông tin điện tử nongsanantoanthanhhoa.vn để kết nối cung cầu nông sản an toàn. Đặc biệt, tỉnh đã thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào nông nghiệp như DABACO, Newhope, Tập đoàn TH, Mastergood - Hungary, Xuân Thiện..., góp phần đưa nông sản Thanh Hóa tham gia sâu vào chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp số, nông nghiệp sạch, hữu cơ, tuần hoàn của tỉnh vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Mặc dù trung ương và tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách hỗ trợ, nhưng khâu tổ chức triển khai còn hạn chế. Thực tiễn cho thấy, ở địa phương nào quan tâm, chỉ đạo quyết liệt thì kết quả đạt được trong lĩnh vực này rõ rệt hơn. Từ thực tiễn trên, ngành Nông nghiệp và Môi trường đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn theo chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới, đó là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân, từng bước thay đổi nhận thức về sản xuất truyền thống tiến đến nền sản xuất nông nghiệp số, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp tuần hoàn theo chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu bền vững. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, trong đó chú trọng xây dựng và ban hành các quy định, tiêu chuẩn rõ ràng về nông nghiệp số, sạch, hữu cơ, tuần hoàn nhằm định hướng và quản lý hoạt động sản xuất; gắn với đó là quy hoạch hợp lý vùng sản xuất tập trung, ưu tiên quỹ đất phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong toàn bộ chuỗi sản xuất và quản lý. Tăng cường ứng dụng các thành tựu của trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật, dữ liệu lớn để tối ưu quy trình sản xuất, quản lý tài nguyên, nâng cao năng suất; phát triển mô hình nông nghiệp thông minh, canh tác tự động hóa, ứng dụng cảm biến trong theo dõi và điều chỉnh môi trường sản xuất; đồng thời đầu tư cho nghiên cứu, lai tạo, chuyển giao giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, kháng bệnh tốt, phù hợp điều kiện của tỉnh và đáp ứng yêu cầu sản xuất sạch, hữu cơ. Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp, xây dựng liên kết chặt chẽ từ khâu cung ứng đầu vào, sản xuất, chế biến, phân phối đến tiêu thụ sản phẩm; bảo đảm truy xuất nguồn gốc, chất lượng sản phẩm và tăng cường vai trò của hợp tác xã trong tổ chức sản xuất, kết nối giữa nông dân với doanh nghiệp và thị trường. Đồng thời, khuyến khích phát triển mô hình nông nghiệp tuần hoàn, tái sử dụng và tái chế chất thải, phụ phẩm nông nghiệp nhằm hình thành chu trình sản xuất khép kín, giảm thiểu lãng phí, bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực nguồn nhân lực và đổi mới công tác khuyến nông. Tổ chức đào tạo, đào tạo cho nông dân và cán bộ kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ trong sản xuất; xây dựng hệ thống khuyến nông hiện đại, ứng dụng công nghệ số để chuyển giao nhanh chóng, hiệu quả các kiến thức, kỹ thuật mới cho người sản xuất. Ngài ra, tiếp tục mở rộng hợp tác, liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia trong và ngoài nước; tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và hợp tác thị trường với các địa phương, quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến. Đồng thời, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức đầu tư phát triển nông nghiệp số, sạch, hữu cơ, tuần hoàn; đồng thời ưu tiên bố trí ngân sách cho nghiên cứu, đào tạo, phát triển hạ tầng số, logistics và các chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ góp phần xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp của Thanh Hóa ngày càng hiện đại, bền vững, gia tăng giá trị, khẳng định thương hiệu và nâng cao vị thế nông sản của tỉnh trên thị trường trong nước và quốc tế. |
Nhân dân hiến đất - "cuộc cách mạng" thay đổi diện mạo nông thôn mới Đồng chí Lương Thị Hoa, Bí thư Đảng ủy xã Lưu Vệ. Là vùng động lực kinh tế, mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, trong nhiệm kỳ 2020-2025, công tác quy hoạch tại xã Lưu Vệ có nhiều đột phá, thể hiện tầm nhìn dài hạn và sự linh hoạt trong quản lý phát triển đô thị. Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TU ngày 12/7/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về cuộc vận động Nhân dân hiến đất để đầu tư, cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang kết cấu hạ tầng, trọng tâm là đường giao thông ở khu vực nông thôn, đô thị trên địa bàn tỉnh theo hướng đồng bộ, hiện đại đã nhanh chóng trở thành phong trào sâu rộng, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã Lưu Vệ. Phong trào đã khơi dậy tinh thần đoàn kết, phát huy sức mạnh đồng thuận giữa ý Đảng - lòng dân, thể hiện sinh động phương châm “Dân biết - Dân bàn - Dân làm - Dân hưởng thụ”. Toàn xã có 963 hộ dân tự nguyện tham gia hiến hơn 20.800m2 đất, trị giá ước tính hơn 4 tỷ đồng. Các tổ chức đoàn thể và Nhân dân đã đóng góp hơn 6.500 ngày công lao động để mở rộng, nâng cấp, chỉnh trang các tuyến đường, kè ao, trồng hàng rào xanh, tạo cảnh quan môi trường sáng - xanh - sạch - đẹp. Nhờ tinh thần đồng lòng ấy, xã Lưu Vệ đã hoàn thành mở rộng 36 tuyến đường giao thông nông thôn, liên thôn, liên xã; bê tông hóa, trồng hoa và lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng, góp phần thay đổi toàn diện diện mạo nông thôn mới. Tổng vốn đầu tư hạ tầng đạt hơn 827,7 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chưa đến 60%, còn lại huy động từ xã hội hóa và đóng góp của Nhân dân. Cuộc vận động Nhân dân hiến đất mở rộng đường giao thông ở xã Lưu Vệ đã khơi dậy tinh thần đoàn kết, ý chí và niềm tin trong Nhân dân. Không chỉ mở rộng những con đường giao thông, chương trình còn mở rộng lòng dân, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân, tạo nền tảng vững chắc để Lưu Vệ tiếp tục vươn lên trên hành trình xây dựng nông thôn mới hiện đại, hướng tới đô thị văn minh. Ngay sau khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Lưu Vệ đã nhanh chóng thành lập Ban Chỉ đạo Cuộc vận động thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, xây dựng quy chế làm việc và kế hoạch thực hiện cuộc vận động. Tại Đại hội Đảng bộ xã lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ xã Lưu Vệ định hướng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị; đoàn kết, chủ động, sáng tạo; khai thác và phát huy hiệu quả mọi nguồn lực; phấn đấu đến năm 2030 xã Lưu Vệ trở thành xã nông thôn mới hiện đại, hướng tới đô thị văn minh. Nhiệm vụ đẩy mạnh cuộc vận động Nhân dân hiến đất để đầu tư, cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang kết cấu hạ tầng, trọng tâm là đường giao thông tiếp tục được địa phương xác định là nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã đã đề ra. Để thực hiện tốt cuộc vận động trên địa bàn xã Lưu Vệ nói riêng và trên địa bàn toàn tỉnh nói chung, tôi đề xuất một số mục tiêu và giải pháp chủ yếu sau: Tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và Nhân dân, xác định đây là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên, liên tục, lâu dài để tập trung tổ chức thực hiện với phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động. Muốn dân hiểu, dân tin, dân làm thì cán bộ, đảng viên phải thật sự gần dân, sát dân, nói cho dân nghe, nghe dân nói và làm cho dân tin. Do đó, công tác tuyên truyền không chỉ dừng ở khẩu hiệu hay hội nghị, mà phải đi vào từng câu chuyện đời thường, từng hoàn cảnh cụ thể. Sự chân thành, kiên trì và thấu hiểu lòng dân sẽ là “chìa khóa” mở ra cánh cửa đồng thuận, làm nên thành công của mọi chủ trương, chính sách. Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây là yếu tố then chốt để cuộc vận động đạt hiệu quả và lan tỏa sâu rộng. Khi lòng dân được khơi dậy, khi tổ chức đoàn thể thực sự là chỗ dựa tin cậy của Nhân dân, thì cuộc vận động hiến đất không chỉ thành công, mà còn trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết, trách nhiệm và tình yêu quê hương. Bên cạnh đó, để cuộc vận động hiến đất và chỉnh trang kết cấu hạ tầng đạt hiệu quả bền vững, chúng ta phải đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư hạ tầng, thu hút doanh nghiệp đồng hành cùng địa phương. Nguồn lực của Nhà nước là quan trọng, nhưng sức dân, trong đó có doanh nghiệp mới là vô tận. |
Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh, hiện đại, bền vững Đồng chí Hoàng Văn Đồng, Giám đốc Sở Xây dựng. Phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh, hiện đại và bền vững là quá trình chuyển đổi các đô thị từ mô hình truyền thống sang hiện đại, hài hòa giữa kinh tế - xã hội và môi trường, ứng dụng công nghệ số, cũng như các giải pháp hạ tầng xanh để giảm tác động môi trường, tiết kiệm tài nguyên, nâng cao chất lượng sống, tạo ra giá trị lâu dài cho cư dân, doanh nghiệp. Trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đô thị theo hướng bền vững trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Mặc dù đã đạt nhiều thành tựu tích cực, quan trọng, song do nhiều nguyên nhân, quá trình phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể là, chất lượng đô thị chưa cao; hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, giao thông đô thị, cây xanh... chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hóa. Chưa huy động được đa dạng các nguồn lực đầu tư; trình độ sử dụng thiết bị thông minh của một bộ phận người dân còn hạn chế... Phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh, hiện đại và bền vững vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là định hướng lâu dài. Trong đó, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đóng vai trò quan trọng, là chìa khóa để biến mục tiêu thành hiện thực. Để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực phát triển đô thị theo hướng xanh, thông minh, hiện đại, bền vững, trước hết cần phải hoàn thiện thể chế chính sách. Trong đó, tiếp tục kiến nghị Bộ Xây dựng sớm tham mưu Chính phủ ban hành nghị định về đô thị thông minh và hướng dẫn các chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể về đô thị xanh, thông minh làm cơ sở pháp lý thống nhất cho các địa phương triển khai đồng bộ. Quá trình phát triển, cần sử dụng hiệu quả nguồn lực ngân sách Nhà nước tập trung cho hạ tầng khung (như: Giao thông kết nối các đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp; hệ thống cấp, thoát nước...), các dự án có tính chất lan tỏa, tạo động lực cho phát triển toàn tỉnh. Đẩy mạnh đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào giao thông công cộng, chiếu sáng thông minh, năng lượng tái tạo, xử lý rác thải, xử lý môi trường. Thu hút vốn ngoài ngân sách thông qua khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, huy động vốn hợp tác phát triển (ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để đầu tư phát triển hạ tầng động lực như: hàng không, cảng biển, logistics, khu kinh tế, khu công nghiệp, hạ tầng số, năng lượng tái tạo. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi thu hút doanh nghiệp, nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cần quan tâm đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức về khoa học công nghệ, quản lý dữ liệu số, dữ liệu quy hoạch, đô thị, vận hành đô thị thông minh. Đồng thời phát triển đô thị xanh - bền vững gắn với bản sắc vùng miền... Với quyết tâm chính trị cao, sự đồng thuận của Nhân dân và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền, tin tưởng rằng hệ thống đô thị của Thanh Hóa sẽ ngày càng văn minh, hiện đại, trở thành động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững. |
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - động lực phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số Đồng chí Trần Duy Bình, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ. Nhiệm kỳ 2020-2025, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, việc triển khai các nghị quyết quan trọng của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) đã đạt nhiều kết quả nổi bật. Thanh Hóa đã hình thành nền tảng vững chắc cho phát triển KH&CN, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, tạo động lực quan trọng cho tăng trưởng GRDP và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Về chính quyền số: 100% cơ quan Nhà nước từ tỉnh đến xã thực hiện quản lý, điều hành trên môi trường mạng; cung cấp trên 80% dịch vụ công trực tuyến; hạ tầng mạng từng bước được hiện đại hóa đáp ứng yêu cầu vận hành chính quyền địa phương 2 cấp. Kinh tế số: Tỷ trọng đóng góp kinh tế số trong tổng quy mô nền kinh tế của tỉnh đạt 15,6% (năm 2024); các ngành, lĩnh vực đẩy mạnh hoạt động chuyển đổi số, thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến; nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ số đổi mới quy trình nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Xã hội số: Kỹ năng số của người dân ngày càng nâng cao, tỷ lệ người dân có tài khoản thanh toán điện tử đạt trên 75%; chữ ký số đạt 35%; mạng viễn thông, internet băng thông rộng được phủ khắp các địa bàn dân cư. Tuy nhiên, nhân lực về KH&CN, ĐMST và CĐS còn thiếu, chất lượng chưa đồng đều; hạ tầng viễn thông tại vùng khó khăn chưa đồng bộ, nhất là ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa; hạ tầng dữ liệu còn khó khăn, tiến độ tạo lập CSDL chuyên ngành còn chậm; hoạt động liên kết giữa 3 nhà: nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường trong nghiên cứu triển khai ứng dụng KH&CN còn chưa thực sự hiệu quả. Với vai trò là cơ quan tham mưu, Sở KH&CN xin được trình bày một số giải pháp trọng tâm thực hiện nhiệm kỳ 2025-2030, cụ thể như sau: Về phát triển chính quyền số: Tiếp tục hoàn thiện hạ tầng số đồng bộ, an toàn, hiện đại, phủ rộng đến từng cơ quan, đơn vị, từng địa bàn dân cư; triển khai các nền tảng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, hướng tới 100% thủ tục hành chính đủ điều kiện được số hóa, giải quyết trực tuyến toàn trình phục vụ người dân và doanh nghiệp. Về phát triển kinh tế số: Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới quy trình công nghệ, mô hình sản xuất kinh doanh; phát triển thương mại điện tử, logistics thông minh, tài chính số; ứng dụng các công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, du lịch thông minh, năng lượng tái tạo; thu hút đầu tư phát triển hình thành khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo cấp tỉnh, tạo hệ sinh thái thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo. Về phát triển xã hội số: Tiếp tục đẩy mạnh phổ cập kỹ năng số cho người dân; nhất là khu vực nông thôn, miền núi; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân, nhất là người yếu thế tham gia sử dụng các dịch vụ công trực tuyến; phát triển các nền tảng số trong giáo dục, y tế, văn hóa, thương mại,.. nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng KH&CN: Tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, như công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng sạch, AI, IoT, Blockchain phục vụ sản xuất và đời sống. Tăng cường liên kết “ba nhà”: Nhà nước - doanh nghiệp - viện, trường; mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển giao, ứng dụng KH&CN và CĐS. Triển khai xây dựng kế hoạch thực hiện khâu đột phá đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao KH&CN, ĐMST và CĐS trên 5 trụ cột: Xây dựng, ban hành cơ chế chính sách, phát triển nhân lực, tạo lập dữ liệu số và ứng dụng công nghệ cao; xây dựng, nhân rộng các mô hình kinh tế mới (kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...); tiếp tục xây dựng và phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả trên các lĩnh vực; nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, ĐMST và CĐS không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là con đường ngắn nhất để Thanh Hóa hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng, trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn 2045. |
Xã Yên Định góp phần cùng cả tỉnh thực hiện mục tiêu xây dựng NTM và phát triển đô thị Đồng chí Lê Minh Nghĩa, Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Yên Định. Xã Yên Định được tách ra từ huyện Yên Định cũ - là địa phương đi đầu trong phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM) của khu vực Bắc Trung bộ và tỉnh Thanh Hóa. Đến nay, diện mạo xã Yên Định đã thay đổi toàn diện, kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, năng lực sản xuất và quy mô giá trị sản phẩm ngày càng tăng; kết cấu hạ tầng được đầu tư, đô thị có bước phát triển; văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình xây dựng NTM và phát triển đô thị vẫn còn những hạn chế, đó là chưa chú trọng hoàn thiện và duy trì các tiêu chí NTM, NTM nâng cao; chưa tập trung quan tâm đến phát triển sản xuất để nâng cao thu nhập cho người dân; kết cấu hạ tầng đô thị còn chưa đồng bộ... Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ tới là triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng NTM và xác định chỉ tiêu đô thị hóa đến năm 2030 đạt từ 50% trở lên. Để góp phần cùng với cả tỉnh đạt được các mục tiêu về xây dựng NTM và phát triển đô thị, tôi xin đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh và nội lực, đi đầu trong xây dựng xã Yên Định đạt chuẩn NTM nâng cao, hướng đến đô thị hiện đại trước năm 2030. Đó là, tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hoàn thành và hoàn thành vượt mức tất cả mục tiêu, chỉ tiêu về kinh tế xã hội và xây dựng NTM đã được quyết nghị. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; quản lý, điều hành của chính quyền, chú trọng cải cách hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số theo Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội, người dân và doanh nghiệp trong xây dựng NTM nâng cao giai đoạn 2025-2030. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, trong đó, chú trọng việc nâng cao chất lượng các phong trào thi đua xây dựng NTM. Phải xác định phát huy nội lực chính là kết hợp với huy động tối đa nguồn lực, nhất là nguồn lực trong dân để tập trung xây dựng NTM; lồng ghép có hiệu quả các nguồn lực từ các chương trình, dự án, nguồn vốn khác nhau để đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng. Tăng cường thu hút đầu tư, lấp đầy cụm công nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng thu ngân sách, tạo nguồn lực cho đầu tư. Đề nghị Trung ương và tỉnh tiếp tục có cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu tiên nguồn lực đầu tư cho chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2026-2030 trên địa bàn các xã, để nguồn vốn NSNN thực sự là “vốn mồi” để huy động và dẫn dắt các nguồn lực khác tham gia vào đầu tư các công trình, dự án, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM nâng cao. Xây dựng và phê duyệt quy hoạch chung xã với mục tiêu hướng đến đô thị hiện đại; trên cơ sở đó, tập trung hoàn thiện các hạ tầng thiết yếu để đạt chuẩn đô thị, nhất là hạ tầng đô thị, điện chiếu sáng, thể thao, công viên, các công trình công cộng và hệ thống giao thông đồng bộ kết nối quốc lộ, đường tỉnh và liên kết vùng. Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư, xây dựng NTM nâng cao, hướng đến đô thị hiện đại, phải quan tâm đầu tư phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an ninh để phát triển bền vững và tạo môi trường đáng sống cho người dân. |
Đẩy mạnh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe Nhân dân Đồng chí Lê Văn Cường, Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Y tế Thanh Hóa. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, sự điều hành hiệu quả của HĐND, UBND tỉnh và sự nỗ lực của toàn ngành, y tế Thanh Hóa đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Ngành đã từng bước kiện toàn tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường phân cấp, siết chặt kỷ luật hành chính, phát huy trách nhiệm người đứng đầu. Trong phòng, chống dịch COVID-19, ngành y tế thể hiện rõ vai trò nòng cốt, chủ động, kịp thời, được Trung ương và Nhân dân đánh giá cao. Chất lượng khám, chữa bệnh ngày càng nâng lên; các chỉ tiêu quan trọng như số bác sĩ, số giường bệnh, tỷ lệ bao phủ BHYT đều đạt và vượt mức bình quân cả nước. Nhiều kỹ thuật cao được triển khai thành công. Hạ tầng y tế được quan tâm đầu tư gần 3.300 tỷ đồng, nhiều bệnh viện đạt chuẩn hạng I, nhiều cơ sở tuyến huyện trước đây được cải tạo, nâng cấp hiện đại. 100% cơ sở công lập liên thông dữ liệu với BHYT, 60% bệnh viện đã có hồ sơ bệnh án điện tử, nhiều mô hình CNTT được ứng dụng hiệu quả. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành y tế Thanh Hóa vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận. Đặc biệt, tình hình mới đang đặt ra cho ngành những thách thức và cơ hội chưa từng có: Già hóa dân số, gánh nặng bệnh tật ngày càng gia tăng, sự xuất hiện của các dịch bệnh mới nổi, và đặc biệt là kỳ vọng ngày càng cao của Nhân dân về chất lượng dịch vụ y tế. Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, ngành y tế Thanh Hóa xác định 3 trụ cột then chốt cần tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt. Đó là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong y tế, tiếp tục cụ thể hóa các cơ chế, chính sách, nhất là Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trọng tâm là triển khai hiệu quả Đề án 06, mở rộng hồ sơ bệnh án điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu y tế toàn diện, liên thông với BHYT và các ngành liên quan. Nghiên cứu, thí điểm ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hỗ trợ chẩn đoán, điều trị, tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học. Phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao. Chú trọng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, thực hiện nghiêm quy tắc ứng xử, lấy y đức làm nền tảng phục vụ Nhân dân. Chủ động thực hiện cơ chế luân phiên cán bộ y tế giữa các tuyến, vừa khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực cục bộ, vừa tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng ngay trong thực tiễn. Đồng thời, tham mưu cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, giữ chân nhân lực giỏi. Hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, trong đó ngành sẽ tiếp tục tham mưu cho tỉnh ưu tiên đầu tư mở rộng, nâng cấp hệ thống y tế, nhất là tuyến cơ sở và các địa bàn khó khăn. Chỉ đạo thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư trọng điểm, từng bước hiện đại hóa các bệnh viện đạt chuẩn hạng I, đồng thời cải tạo, nâng cấp cơ sở y tế, trạm y tế khang trang, đồng bộ. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động đa dạng các nguồn lực xã hội, mở rộng hợp tác công - tư trong đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại. |
Xây dựng Lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới Đại tá Phạm Văn Sâm, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa. Nhiệm kỳ 2020-2025, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, cùng sự phối hợp chặt chẽ của các ban, sở, ngành, đoàn thể, Lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều chuyển biến nổi bật, toàn diện. Qua đó khẳng định, Lực lượng vũ trang Thanh Hóa thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân trong tỉnh, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Bước vào nhiệm kỳ 2025-2030, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo; các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống phá ta trên mọi lĩnh vực, đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương. Để xây dựng Lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tôi xin nhấn mạnh một số vấn đề trọng tâm, đó là: Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang tỉnh, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo, phát huy dân chủ, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết, thống nhất; gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; bảo đảm Lực lượng vũ trang tỉnh tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Coi trọng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chủ động ứng dụng công nghệ số, mạng xã hội để lan tỏa hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đặc biệt quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ trẻ, cán bộ cơ sở; gắn đào tạo lý luận với rèn luyện thực tiễn, phát huy vai trò nêu gương, tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thách thức và dám hành động vì lợi ích chung. Xây dựng Lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh về đạo đức, trong sạch về lối sống; kiên quyết phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thực sự gương mẫu trong lời nói, hành động, có trách nhiệm với Nhân dân, để Lực lượng vũ trang tỉnh luôn xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thanh Hóa. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương với phát triển kinh tế - xã hội; chủ động tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, xây dựng NTM, xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn. |
Nhóm PV Thời sự