Đại hội Đảng

Nhiệm kỳ 2025-2030

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hóa và vị thế của Việt Nam

(Baothanhhoa.vn) - Trong dòng chảy phát triển mới của đất nước, đối ngoại đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ là công cụ thực thi đường lối độc lập, tự chủ, mà còn là phương thức thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc Việt Nam. Thế giới biến động sâu sắc với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi công tác đối ngoại phải phát triển tương xứng với vị thế, giá trị văn hóa và khát vọng vươn lên của dân tộc. Đó cũng là yêu cầu mang tầm chiến lược mà Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đặt ra: xây dựng nền đối ngoại hiện đại, chủ động, nhân văn, chuyên nghiệp, bản lĩnh, đồng thời mang dấu ấn Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hóa và vị thế của Việt Nam

Trong dòng chảy phát triển mới của đất nước, đối ngoại đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ là công cụ thực thi đường lối độc lập, tự chủ, mà còn là phương thức thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc Việt Nam. Thế giới biến động sâu sắc với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi công tác đối ngoại phải phát triển tương xứng với vị thế, giá trị văn hóa và khát vọng vươn lên của dân tộc. Đó cũng là yêu cầu mang tầm chiến lược mà Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đặt ra: xây dựng nền đối ngoại hiện đại, chủ động, nhân văn, chuyên nghiệp, bản lĩnh, đồng thời mang dấu ấn Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hóa và vị thế của Việt Nam

Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Thủ tướng Anh Keir Starmer, ngày 29/10/2025. Ảnh: Getty Images

Tư duy chiến lược mới và những yêu cầu đặt ra cho đối ngoại Việt Nam

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV xác định một tầm nhìn mang tính đột phá: “Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hoá và vị thế của đất nước”. Đây là sự kế thừa đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, nhưng đồng thời thể hiện một bước phát triển mới về tư duy chiến lược, từ “tham gia” sang “kiến tạo”, từ “thích ứng” sang “chủ động định hình”, từ “phục vụ phát triển” sang “tạo động lực phát triển mới”.

Điểm mới nổi bật trong Dự thảo là xác lập đối ngoại, hội nhập quốc tế cùng với quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Lần đầu tiên, đối ngoại được đặt ngang hàng với hai trụ cột bảo vệ Tổ quốc, khẳng định vai trò sống còn của việc kết hợp “sức mạnh mềm” và “sức mạnh cứng” trong bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước. Đây là bước nhấn mạnh quan trọng, phản ánh thực tiễn nhiệm kỳ qua, khi đối ngoại trở thành một trong những lĩnh vực thành công nhất, tạo được đột phá về quan hệ song phương, đa phương, kinh tế, văn hóa và vị thế quốc tế.

Điểm mới thứ hai là khẳng định đối ngoại là bộ phận cấu thành của sức mạnh tổng hợp quốc gia, vừa là trụ cột, vừa là phương thức thể hiện bản sắc Việt Nam: hòa hiếu, nhân văn, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt trong ứng xử. Đối ngoại không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền, mà còn kiến tạo vị thế, thu hút nguồn lực, lan tỏa giá trị văn hóa, thúc đẩy sức mạnh mềm.

Điểm mới thứ ba là tầm nhìn về đối ngoại đa phương mang tính dẫn dắt, với phương châm “đóng góp, định hình, dẫn dắt”. Việt Nam không chỉ tham gia các cơ chế quốc tế, mà phải chủ động đề xuất sáng kiến, xây dựng chuỗi giá trị hợp tác mới, đặc biệt trong lĩnh vực xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, an ninh phi truyền thống.

Cùng với những chuyển biến về tư duy, bối cảnh thế giới đang đặt ra yêu cầu mới cho đối ngoại Việt Nam. Trật tự quốc tế dịch chuyển sang đa cực, đa trung tâm; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; an ninh mạng, công nghệ, năng lượng, khí hậu trở thành thách thức phi truyền thống. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là tâm điểm vừa của tăng trưởng, vừa của cạnh tranh địa chính trị.

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã nằm trong nhóm các nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỉ USD, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 trên thế giới, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao. Vị thế ấy đặt ra yêu cầu mới: đối ngoại Việt Nam không chỉ “mở rộng”, mà phải “phát triển tương xứng với tầm vóc quốc gia”, nâng cao chất lượng, chiều sâu và khả năng kiến tạo trong mọi hoạt động.

Trên nền tảng đó, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề ra ba mục tiêu chiến lược cho đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới: (1) Kiến tạo môi trường hòa bình, an ninh và ổn định dài hạn cho phát triển. (2) Tạo động lực mới thông qua hội nhập sâu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh và hợp tác công nghệ cao. (3) Nâng tầm vị thế và sức mạnh mềm của Việt Nam, khẳng định bản sắc văn hóa, trí tuệ và tinh thần nhân văn của dân tộc trong trật tự mới.

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hóa và vị thế của Việt Nam

Chủ tịch nước Lương Cường có bài phát biểu quan trọng tại hội nghị APEC 2025. Ảnh: Getty Images

Những định hướng lớn và đột phá chiến lược cho đối ngoại Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Dựa trên yêu cầu phát triển đất nước và biến động toàn cầu, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh nhiều định hướng mới, toàn diện và có tính kiến tạo cao cho công tác đối ngoại.

Một là, tiếp tục lấy phục vụ phát triển đất nước làm trọng tâm. Ngoại giao phải trở thành “nguồn lực mềm” tạo động lực tăng trưởng bền vững. Trọng tâm là mở rộng quan hệ với các đối tác chủ chốt, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, tranh thủ nguồn lực về vốn, công nghệ, chất xám, đổi mới sáng tạo, đồng thời thúc đẩy liên kết kinh tế mới, như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Đây là những lĩnh vực có tính sống còn để thực hiện mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.

Hai là, phát huy vai trò của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Việc xác lập “đối ngoại, hội nhập quốc tế” ngang hàng với “quốc phòng, an ninh” tạo nên cơ chế ba trụ cột: Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại. Ba lực lượng này hợp thành thế trận thống nhất, chủ động hóa giải nguy cơ xung đột, can thiệp từ bên ngoài và rủi ro bất ổn trong các địa bàn và không gian mới, như mạng, vũ trụ, năng lượng, công nghệ cao.

Ba là, đổi mới tư duy đối ngoại đa phương theo hướng chủ động dẫn dắt. Việt Nam cần nâng tầm vai trò trong ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, các liên kết khu vực mới... Dự thảo các văn kiện nhấn mạnh yêu cầu chuyển từ “tham gia tích cực” sang “chủ động đóng góp và dẫn dắt”, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, môi trường và an ninh phi truyền thống. Đây là biểu hiện rõ nhất của tầm vóc và năng lực mới của ngoại giao Việt Nam.

Bốn là, kết hợp hài hòa ba trụ cột của ngoại giao: chính trị - kinh tế - văn hóa. Ngoại giao chính trị củng cố tin cậy chiến lược, gắn kết lợi ích; ngoại giao kinh tế tạo động lực phát triển; ngoại giao văn hóa lan tỏa bản sắc Việt Nam, nâng cao hình ảnh quốc gia, góp phần gia tăng sức mạnh mềm. Trong thời đại toàn cầu hóa, văn hóa và giá trị Việt Nam trở thành nguồn lực chiến lược để tạo niềm tin và thiết lập quan hệ lâu dài.

Năm là, đẩy mạnh hiện đại hóa nền ngoại giao và chuyển đổi số trong công tác đối ngoại. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV nhấn mạnh yêu cầu xây dựng nền đối ngoại toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, dựa trên nghiên cứu, dự báo chiến lược, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và các nền tảng số. Việc số hóa hệ thống ngoại giao sẽ tăng năng lực giám sát, phân tích và hỗ trợ ra quyết định nhanh, chính xác.

Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao “vừa hồng, vừa chuyên”, tinh thông công nghệ, giỏi ngoại ngữ, có tư duy toàn cầu. Trong kỷ nguyên cạnh tranh trí tuệ, con người là yếu tố quyết định năng lực đối ngoại. Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu đổi mới cơ chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngoại giao theo chuẩn mực quốc tế; hình thành đội ngũ chuyên gia về ngoại giao kinh tế, công nghệ, môi trường, luật pháp và đa phương.

Những định hướng này, đặc biệt là việc bổ sung đối ngoại, hội nhập quốc tế vào nhóm nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, không chỉ thể hiện sự đổi mới trong tư duy, mà còn là đòn bẩy chiến lược để đưa đối ngoại trở thành công cụ cốt lõi của phát triển bền vững và an ninh quốc gia.

Phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới là yêu cầu chiến lược, phản ánh khát vọng đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển cao hơn về chất. Đối ngoại tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hóa và vị thế Việt Nam không chỉ là mở rộng quan hệ, mà là hành trình kiến tạo vị thế, khẳng định bản sắc, phát huy sức mạnh mềm và trí tuệ dân tộc trong trật tự thế giới mới.

Trong một thế giới biến động, một Việt Nam tự tin, tự chủ, bản lĩnh và có trách nhiệm sẽ tiếp tục là biểu tượng của hòa bình, hợp tác và phát triển, góp phần định hình môi trường khu vực và toàn cầu theo hướng ổn định, nhân văn và bền vững.

TS Phạm Ngọc Hùng

Các Tin tức Đại hội khác

Hội nghị toàn quốc quán triệt Chỉ thị về công tác bầu cử diễn ra ngày 15/11

Hội nghị toàn quốc quán triệt Chỉ thị về công tác bầu cử diễn ra ngày 15/11

Triển khai Kế hoạch số 49/KH-HĐBCQG, sáng 15/11 (từ 8 giờ-11 giờ 30 phút), tại Phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031.
Tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt của y tế dự phòng trong bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe Nhân dân

Tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt của y tế dự phòng trong bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe Nhân dân

(Baothanhhoa.vn) - Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, công tác dự phòng, giám sát, phát hiện sớm và kiểm soát dịch bệnh có vai trò đặc biệt quan trọng. Từ thực tiễn hoạt động y tế dự phòng, tôi xin đóng góp một số ý kiến vào dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng như sau: